Nghệ thuật múa rối nước là một trong những từ khoá được search nhiều nhất trên google về chủ đề nghệ thuật múa rối nước. Trong bài viết này, nghethuat.vn sẽ viết bài về lịch sử đặc sắc của nghệ thuật múa rối nước ở Việt Nam.
Table of Contents
Lịch sử múa rối Việt Nam
Hầu hết các nước trên toàn cầu đều có múa rối. VN, múa rối là một trong những loại ảnh nghệ thuật truyền thống. Đến nay nghệ thuật múa rối Viet Nam đang đạt đến trình độ nghệ thuật có gia trị cao về tinh thần, là một trong những loại hình sân khấu tiêu khiển cuốn hút trong đời sống kiến thức tinh thần của người dân Việt Nam. Nghệ thuật múa rối dân gian VN xuất hiện từ thời cổ đại cùng với Nhà nước văn minh – Nghệ thuật thời Hùng Vương gắn liền với tập tục nghi lễ, hội hè Việt cổ mẹo đây hơn 2000 năm.
Bia “Sùng Thiện Diên linh tự tháp”
Nhưng thực tiễn cho thấy múa rối tồn tại ở Việt Nam cho đến nay trên dưới 1000 năm, nó phát triển mạnh nhất vào thời Lý – Trần (thế kỷ XI – XII). Hiện luôn luôn chưa có một tư liệu nào chứng minh được gốc gốc xuất xứ ra đời của nghệ thuật múa rối. Duy nhất hiện còn lưu trên Bia “Sùng Thiện Diên linh tự tháp” có niên hiệu Thiên Phù Duệ Vũ thứ 2 (1121) thời Lý Nhân Tông, có ghi trò múa rối nước biểu diễn mừng thọ Nhà vua. Điều đó chứng tỏ rằng nghệ thuật múa rối dân gian VN đang được tạo dựng từ bao đời nay, được lưu truyền tồn tại và ngày càng tăng trưởng với nhiều thể loại như: Rối tay, rối que, rối dây, rối nhà mồ,rối mặt nạ,rối diều sáo, rối đồ chơi, rối sao, rối bóng,… đặc biệt là múa rối nước. content trong tích, trò, vở diễn mang thuộc tính mua vui, tiêu khiển, gây cười, hóm hỉnh, vui nhộn, châm biếm,… Hoạt động của múa rối dân gian Việt Nam, gắn liền với tín ngưỡng làng xã, một mặt để lễ bái thờ cúng thần linh – Thần Thành Hoàng mặt không giống để góp vui cho khách trảy hội,…Những người tham dự trong phường rối là các nghệ nhân nghiệp dư, họ là những nông dân, thợ thủ công vào thời vụ thì cấy cày, sử dụng đủ ngành kiếm sống, lúc nông nhàn thì tham gia các sinh hoạt nghệ thuật, mỗi phường có một người đứng trên đỉnh gọi là ông Trùm. Ông Trùm tụ tập người xung quanh (họ là những người tình nguyện) cùng bàn bạc, sáng tác và rèn luyện các tiết mục, thống nhất biểu diễn một số trò,tích theo yêu cầu. Đó là những Phường rối, gánh rối dân gian được nhân dân thành lập và trân trọng gìn giữ lưu truyền đến hiện giờ. tiếp thu vốn nghệ thuật truyền thống, những người hoạt động trong lĩnh vực này đang dành tâm sức, đầu tư, để tăng trưởng hơn lên nhưng k mất đi cái nguồn truyền thống dân tộc.
Nghệ thuật Múa rối dân gian Viet Nam có: Múa rối cạn và múa rối nước.
a. Múa rối cạn:
Nghệ thuật rối cạn dân gian truyền thống tăng trưởng rộng khắp cả nước với nhiều tên gọi: Miền Bắc: ổi, Lỗi, ổi lỗi, Khối lỗi, Rối, Múa rối, Trò, Trò máy,… (Việt): Mộc thầu hí (Nùng), Slương pấtlạp (Tày), Mụa rội (Mường),… Miền Nam: Hát gỗ, Hát ảnh, …
Múa rối cạn có nhiều hình thức không giống nhau như: Rối tay, rối que, rối dây, rối bóng, rối mặt nạ, rối nhà mồ, rối lốt,… phần đông các tích trò thường dùng các làn điệu chèo,ca trù, tuồng, nhạc cung đình,… để kéo trò, hát đế và biểu diễn
– Rối tay: Ít dùng trên sân khấu, còn gặp nhiều trong trò nghi lễ chùa chiền. Rối tay thường được chế tạo đầu bằng gỗ, mình khâu vải (không tay), khi điều khiển nghệ nhân lồng bàn tay vào trong lòng khoét rỗng của đầu hoặc cầm một đoạn cán nối dài cổ.
– Rối que: Rất phổ biến, nhỏ cỡ 30-35 cm. Đầu tạc liền với mình bằng gỗ, gồm cả tóc, tai, khăn, mũ, bàn tay bằng gỗ gọt liền cổ tay hoặc rời. Điều khiển bằng que tre, que sắt cắm vào mình và cổ tay luồn trong áo. không có chân, cần tạc thêm đính ngoài. Cũng có ngành, có quân tạo ảnh cỡ to, kiểu ảnh nhân, đầu mình đan bằng nan sử dụng diễn thờ, xong đem đốt. Đặc biệt đồng bào Bana tạc hình nhân khá lớn bằng gỗ sử dụng trong lễ bỏ mả và sau lễ bỏ lại trong nhà mồ.Trên sân khấu, nhiều quân rối dùng thêm dây mềm điều khiển hòa hợp với rối que.
– Rối máy: Rất phổ biến cả trong đồ chơi, trò chơi và sân khấu. Toàn thân được tạc bằng gỗ riêng từng bộ phận, nối với nhau bằng khớp lỏng. Thường sử dụng sơn vẽ mầu thay trang phục vải. Điều khiển bằng que, dây. Nhiều quân là trò riêng. dùng xen với rối tay, rối que. Chuyên sử dụng trong rối nước, đồ chơi trẻ em, rối diều, rối gió, rối pháo
– Rối dây : Chỉ thấy xuất hiện ở vùng biên giới Cao Bằng với tên Mộc thầu hí, Slương pấtlạp, đầu rối bằng gỗ, mình nan đan, bàn tay gỗ, bàn máy điều khiển bằng tre, dây tơ, dây gai mềm, k có chân. Rối sử dụng để diễn trò và tích trò. Sân khấu thường dựng trên chòi làm sẵn ở các chợ, sòng bạc, …
– Rối bóng: Mới phát hiện, xưa có ở tỉnh Kiên giang, đủ nội lực từ Campuchia truyền sang. Nay k còn.
– Rối mặt nạ: Mặt nạ được làm bằng giấy bồi, xốp, gỗ… được sơn vẽ theo tạo hình nhân vật, khi diễn đủ sức sử dụng tay điều khiển, hoặc đeo lên đầu người diễn.
– Rối lốt: Mới xuất hiện ở VN những năm Hiện nay, thường là người mặc lốt nhân vật để biểu diễn.
Ở Việt Nam, nhân vật trên sân khấu rối rất phong phú, là những nhân vật trong các truyện cổ tích , thần thoại như Lý Thông, Thạch Sanh, Sơn Tinh, Thuỷ Tinh, Phù Đổng, … đến các nhân vật hiện đại giống như Cu Tý, bé Rồng, Anh bộ đội kéo pháo,… hơn nữa trên sân khấu múa rối những loài động vật, cây cối, nhà cửa, vật dụng… đều đủ sức trở thành nhân vật có đời sống sinh động và phong phú. đủ nội lực nói sân khấu rối “chấp nhận” mọi sự tưởng tượng phong phú. Các con rối đang biến sự tưởng tượng thành “hiện thực”, k có biên giới ngăn hướng dẫn cái thật và cái giả, … vì vậy, có nhiều nhà nghiên cứu vừa mới gọi sân khấu rối là “Thế giới tuyệt xinh của tuổi thơ”.
b. Múa rối nước:
Múa rối nước là một trong những loại ảnh sân khấu tiêu biểu cho nền kiến thức dân tộc Việt Nam – Thể hiện trí tuệ và sự giỏi, sức sáng tạo của con người Viet Nam.Trong không gian hiện đại hôm nay, múa rối nước không còn quá xa lạ với quảng đại quần chúng trong nước và trên thế giới. Có lẽ thời gian là một trong những nhân tố giúp múa rối nước định hướng, khẳng định và phát triển, được xếp hạng là một trong những loại ảnh nghệ thuật có giá trị cao, đưa tính truyền thống trong đời sống kiến thức tinh thần của nhân dân VN.
thực tiễn cho thấy, do điều kiện tự nhiên và công việc của nhà nông, đủ nội lực nói rằng: Múa rối nước được xây đắp hình thành từ tâm tư, tình cảm của người dân lao động, nó tái hiện cuộc sống và ước vọng của niên đại.Trước kia rối nước chỉ diễn ngoài trời, sân khấu gắn bó, hòa quyện với thiên nhiên, trong không gian mênh mông, trời, đất và nước có cây xanh, mây, gió, lửa, có khói mờ vương tỏa, ẩn hiện mái đình uốn cong và màu ngói đỏ, quả là một sự hòa quyện mới lạ giữa thiên nhiên và con người. hiện tại, múa rối nước VN, không chỉ bảo tồn mà đang được khai thác sâu, rộng hơn. cho đến nay, cả nước có 18 phường rối nghiệp dư và 5 Nhà hát, đoàn múa rối chuyên nghiệp.Hoạt động của các phường rối phần đông luôn luôn theo hình thức giúp cho hội hè, đình đám…,các thành viên tham gia chủ yếu là nông dân trong làng, xã. Có phường các member là ông bà, cha mẹ, vợ chồng con cái dâu rể cùng trong một gia đình.
Trong những năm Khoảng thời gian mới đây, múa rối VN đã mạnh dạn thể nghiệm một số vở diễn với thể loại phối hợp giữa truyền thống và hiện đại, để cung cấp và thích hợp với tiến trình tăng trưởng xã hội hóa đất nước. Với vị thế hiện giờ, múa rối nước VN được xếp vào hạng là nghệ thuật mới mẻ của văn hóa dân tộc.
– Rối nước là đặc sản kiến thức Việt
– Rối nước là “đặc sản văn hoá” của cư dân trồng lúa nước Viet Nam.
– Rối nước hình thành với hai thành tố cơ bản: rối và nước.
Nếu rối là công trình của nghệ thuật tạc tượng gỗ dân gian thì nước là một nguyên nhân quan trọng hàng đầu của nghề trồng lúa nước (nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống). Một minh chứng rõ rệt của cái nôi sinh thành nghệ thuật rối nước là sự tập hợp hầu hết cơ sở rối nước cổ truyền quanh Kinh đô Thăng Long xưa (Thủ đô Hà Nội ngày nay), trung tâm của vùng đồng bằng Bắc Bộ phì nhiêu, chiếc nôi của nền văn minh cổ của dân tộc VN, được đan xen bằng một mạng lưới sông ngòi chằng chịt, gắn liền với nạn lũ lụt chu kỳ hàng năm. Rối nước đủ nội lực manh nha từ trong công cuộc chế ngự cái tai hoạ thường đe dọa cuộc đời của cư dân . Nước – tai họa số một trong bốn tai họa Thủy, hoả , đạo, tặc . Nước -phục vụ sản xuất ra lúa gạo…
Văn hoá VN đưa cội nguồn và bản sắc của một nền sản xuất nông nghiệp, chủ yếu là lúa nước. chức năng tổng hòa của người – trời – đất vừa mới tạo nên nền nông nghiệp với những cộng đồng định cư thành làng xã từ hàng ngàn năm trước. Cư dân này đang từ trồng lúa nước, tạo nên nền văn minh trồng lúa nước: nền văn minh sông Hồng; nền văn minh Viet Nam cổ xưa này đã tạo nên thế quân bình vững bền của nền văn hoá xóm làng, giữa con người với tự nhiên. Kỹ thuật dùng trong nghề trồng lúa nước và các ngành phụ quanh nó, một phần văn hoá nối liền con người với tự nhiên đang góp phần chủ yếu vào sự tạo dựng nghệ thuật rối nước.Dùng nước làm sâu khấu cho quân rối hoạt động là đặc điểm mới lạ của nghệ thuật rối nước. Nước k chỉ là ngành quân rối làm trò đóng kịch mà còn là yếu tốc cộng minh, cộng sinh, cộng hưởng. Nước vừa cản trở vừa hỗ trợ, phối với với quân rối. Nước k chỉ là hoàn cảnh, là khung cảnh mà còn giống như “thầy phù thuỷ” có nhiều phép thần thông biến hoá so với nghệ thuật biểu diễn rối.
Quân rối nước chỉ là những công trình điêu khắc gỗ đối phó, thô thiển, đường nét cứng, màu sắc nghèo, cử động gấp khúc, vừa quá đủ gợi cho người xem nhận thức khái quát về người, về vật, … Nhưng nước đã dùng đặc tính lỏng và phản quang của mình tạo nên sự ảo hoá hiện tượng. Sân khấu rối nước luôn đầy ắp sắc ảnh trời, mây, cây, cảnh… biến đổi khôn lường in trên mặt nước làm nền cho nhân vật “rối” hoạt động. Trên “chiếc gương” này, tất cả đều lung linh, mềm mại, uyển chuyển, biến hoá tiếp tục trước mắt người đọc. Những gì là thô cứng, nghèo nàn của đường nét, màu sắc, cử động ở quân rối đều trở nên sinh động, phong phú.
Nước ẩn giấu trong lòng tất cả mọi bí mật của trò rối. người xem trên bờ thấy quân rồi chợt hiện, chợt ẩn,tiếng trống, tiếng pháo,…lúc mềm mại, dịu dàng, uốn lượn… xem rối nước là ngồi ngoài trời, trực tiếp với thiên nhiên. Ở đây tất cả đều thực, giác quan con người đều đủ nội lực cảm thụ được. Nhưng chính giữa những cái quá quen này, trò rối biểu hiện cho tài năng sáng tạo , ngợi ca sự chiến thắng thiên nhiên của con người,…
Rối nước vừa thực vừa hư, vừa sân khấu vừa cuộc đời, gắn bó với nhân dân Việt Nam giống như cây đa, bến nước, lời ru, cánh cò,… Sân khấu rối nước là sân khấu hội hè, lưu giữ nhiều sáng tạo nghệ thuật dân gian, kỹ thuật cổ xưa và nhiều sinh hoạt tinh thần, tập tục, lao động vật chất của cư dân trồng lúa nước Việt Nam trong công cuộc dựng nước và giữ nước từ hàng ngàn năm nay.
Chương trình tiết mục rối nước khá phong phú :
– Các trò ca ngợi cái thú làm ruộng, chăn vịt, đánh cá, dệt cửi, xay lúa, giã gạo ….
– Các trò vui chơi giải trí lành mạnh bổ ích như đấu vật, đưa ngựa, đánh đu, leo cây, lộn thang, múa lân, múa rồng, đánh kiếm…
– Các tích trò nêu gương anh hùng dân tộc giống như Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê
– Các vở chèo,vở tuồng như Thị Mầu lên chùa, Lưu- Nguyễn nhập Thiên thai, Tây du, Sơn Hậu, Tam quốc …
Tiết mục rối nước ngắn gọn, phản ánh một mẹo ước lệ nhưng chân thực cuộc sống lao động sản xuất và chiến đấu của người Việt
Trò xưa thường diễn không lời, khi nền văn học dân tộc tăng trưởng đã cung cấp cho các tiết mục rối nước thêm lời giáo, lời hát.
Quân rối nước được tạo hình bằng loại gỗ nhẹ, dai thớ giống như cây sung, vông … vốn rất sẵn quanh các bờ ao và sơn bằng nhựa cây sơn (rahus succédanéa) chuyên sử dụng sơn thuyền được trồng nhiều ở vùng trung du phía Bắc. Quân rối điều khiển từ xa bằng hai loại máy: dây và sào với các bàn máy dễ dàng hay phức hợp, các nền móng cọc, các dây to dây nhỏ, dây cứng dây mềm, các sào gỗ, sào tre…
Nghệ nhân rối nước phải đứng ngâm nửa mình trong bùn nước sau mành của buồng trò điều khiển quân rối… Xưa rối nước thường diễn ban ngày và chủ yếu với nhạc gõ giống như trống, mõ, phèng la, não bạt, … và các âm thanh mạnh như pháo, ốc, tù. Lời giáo, lời trò đều get từ ca dao, dân ca,… hay trích trong các vở kịch hát dân tộc. Sân khấu rối nước gọi là Thủy đình , được dựng ngoài trời, gồm:
– Một: Buồng trò – dựng giữa ao, hồ, che kín, có mành treo cửa trước che nghệ nhân đứng sau điều khiển.
– Hai: Sân khấu – khoảng mặt nước trước mành dài rộng 4m x 4m, hai bên có lan can thấp dẫn từ hai nhà nanh hai bên, ngành quân rối hoạt động.
– Ba: ngành người xem – khoảng bờ, bãi, sân trước và hai bên sân khấu dưới bóng cây trồng quanh ao, hồ…
Thủy đình rối nước là phần địa điểm chủ yếu của ngày hội, trong khu vực diễn ra các trò vui như đánh vật, chọi gà,… kênh trưng bày nghi tiết hội (cờ, lọng, tàn, quạt, trống, chiêng, phướn, nêu, đèn,…), nên người ta rối nước đắm mình trong k khí náo nức, rộn ràng, tưng bừng, … và quang cảnh rực rỡ, mời gọi, … của hội hè…. Chứng cứ bằng văn tự trước tiên ghi chép về múa rối nước Viet Nam mà chúng ta đọc được là bia tháp Sùng Thiện Diên Linh dựng năm 1122 (tương đương với thời Tống, Trung Quốc) trong đó, có đoạn viết về Kim Ngao,”ở giữa sóng, một con rùa vàng nổi, lưng đội ba hòn núi. Rùa lội rù rờ trên mặt nước, lộ vân trên vỏ và rè bốn chân. Chuyển mắt Nhìn lên bờ, miệng thì phun nước lên bến. Quay đầu hướng tới ngai vua mà cúi đầu chào…” (Dẫn theo Hoàng Xuân Hân – Lý Thường Kiệt, tập II)
Chúng ta đều biết các vua nhà Lý rất sùng Phật và ưa thích điềm lạ, đặc biệt là những chuyện rồng lên, rồng hiện, rồng ấp, rồng nằm. Niên hiệu của các vua Lý cũng vương vấn ít nhiều đến con rồng : Long Thụy Thái Bình, Long Chương thiên tự, Long Phù Nguyên Hoá, Chính Long Bảo ứng, Trị Bình Long ứng … Thậm chí vào đời Lý Thánh Tông, có người dâng voi trắng, nhà vua bèn đổi niên hiệu là Thiên huống bảo tượng (trời cho voi báu). Từ năm 1010 đến năm 1225 triều Lý, rất nhiều lần các quan và trăm họ tiến dâng lên các loại rùa ba chân, sáu mặt, rùa năm sắc, rùa trắng … Lại có cả những con rùa trên mai có chữ như : Thiên thư họ thị thánh nhân vạn tuế, Nhất thiên vĩnh thánh, Vương dĩ công pháp, Vương dĩ bột phương, Thiên tử vạn niên … vậy mà các vua Lý luôn luôn chẳng quét thế sử dụng điềm lạ, luôn luôn chỉ xếp các loại rùa ấy vào hạng tầm thường như chim sẻ trắng, hươu trắng, hươu đen, trâu thay rằng, nhựa nhiều cựa …
Trong khi các vua quý trọng rồng thì dân gian lại yêu thích rùa. Vì trong tâm thức nhân dân, còn rùa tuy chậm chạp nhưng gan góc, ở nước cũng được, ở cạn cũng được, chịu được đói, chịu được khát, đủ nội lực đưa trên mình được sức nặng lớn, lại sống lâu.
Rùa vàng (Kim Quy) lại đưa trong mình nó lời phán truyền của thần linh về lịch số :”Thời Đào Đường, nước Việt thường dâng con thần Quy nghìn tuổi, trên lưng có nét chữ khoa đẩu, ghi chép từ thời mở đóng (vũ trụ ảnh thành) đến nay, vua liền sai chép lấy, gọi là lịch rùa” (Từ Hải, mục từ Quy lịch)
Đào Đường (2357 – 2258 TCN) là thời Nghiêu Thuấn, Việt Thường là một bộ nằm trong nước Văn lang thời cổ đại. Khoa đầu nghĩa đen là con nòng nọc, chữ khoa đẩu là loại chữ dễ dàng rất xưa, lúc đầu sử dụng để ghi ngày, về sau, dùng ghi năm và tính lịch. Những điều ghi chép trên chứng tỏ rằng thời xa xưa, trong các loại vật thường gặp, con rùa vàng đang được nhân dân ta nâng lên hàng linh vật , nó luôn gắn bó với con người và dần dần trở thành thần bảo vệ của đất nước (xem chuyện An Dương Vương xây thành ốc và Triệu Quang Phục sử dụng mũ đậu mâu). Rùa trở thành Thanh Giang thần (lễ hội làng Nhội, Thụy Lôi, Đông Anh, hàng năm vẫn có lệ rước thần này). Con rùa vàng được diễn tả trong bia tháp Sùng thiên điện linh chính là ảnh tượng rùa vàng còn soát lại sau hơn một nghìn năm là bạn và là thần linh của dân Việt. Khi nhà Lý lên, sùng bái rồng, thì dân ta đem thể loại nghệ thuật có sẵn ra mừng vua mới theo tinh thần “có gì vui nấy”, chưa đưa ngay ảnh tượng rồng vào hầu vua được. Các vị vua mê đắm con rồng này, cũng đồng ý được một dâu hiệu của lòng thành kính. Sự có mặt của rồng vàng trong múa rối nước thời ấy là một bằng cớ chứng tỏ rằng thể loại nghệ thuật này đủ sức xuất hiện từ rất lâu rồi. Trong ba dạng hoạt động trên, quân rối mới chỉ làm trò, nặng về giải trí – vui chơi. Ở đây các nghệ nhân rối đang tận dụng con diều, cây pháo… diễn trò rối trong phạm vi giới hạn. Dạng sân khấu mới là nơi tung hoành rộng rãi của sự nỗ lực, sáng tạo rối.
Rối nước có mặt ở hầu khắp các tỉnh thành vùng đồng bằng và trung du sông Hồng, gắn bó mật thiết với đời sống vật chất và trí não của cư dân trồng lúa nước. Xưa nay, cứ mỗi khi trong các nhà thuỷ đình (hay buồng trò) rối nước giữa các ao hồ phát ra tiếng trống, tiếng pháo, … báo hiệu có buổi biểu diễn là người to – trẻ em, ông già – bà lão, trai thôn Thượng – gái thôn Đoài nô nức trẩy về thưởng thức cái hay, cái lạ của trò rối nước .
Ở VN rối nước là loại múa rối độc đáo đang có ngót 1000 năm ; sân khấu là các ao hồ đầy nước, con rối sử dụng bằng gỗ nhẹ, được điều khiển từ các buồng ngay cạnh sân khấu bằng các bộ dây và sào dấu ngầm dưới nước. Người điều khiển phải ngâm mình dưới nước để điều khiển. Vì sân khấu là mặt nước lại được ngăn hướng dẫn với buồng điều khiển bằng một bức màn mỏng, cho nên người xem k thể thấy người điều khiển, mà chỉ thấy các con rối vừa mới biểu diễn. Cái độc đáo của sân khấu rối nước là con rối cử động được không chỉ nhờ những bộ dây, sào, mà còn nhờ sức nước tác động và thông qua các bánh lái và phao để được lắp đặt trong “bộ máy” điều khiển các con rối.Trong nghệ thuật múa rối, nghệ thuật tạo ảnh là nghệ thuật chủ chốt. Vẻ mặt, ảnh dạng và y phục của con rối biểu hiện cá tính, song song nó thể hiện cả giới tính, lứa tuổi, hạng người nào trong xã hội, v.v….
Những hành động của con rối không phải hoàn toàn do người điều khiển mong muốn làm là được mà chủ yêú phải được kỹ thuật tạo ảnh quyết định trước. Nhiều khi ý đồ của tác giả và đạo diễn được thông qua tài năng của họa sĩ tạo hình và người làm con rối mới dẫn đến hiệu quả biểu diễn. ví dụ : cấp độ của con rối k thể hiện được sự cải thiện nét mặt mà mãi mãi cố định, ảnh hưởng của nó chậm chạp, k tự nhiên do đó phải tạo cho con rối có cái “duyên” riêng và làm sao để thể hiện được trong tạo hình bộ măt có tính điển hình nhất của cá tính nhân vật. Nhân vật chú Tễu trong nghệ thuật rối VN có ảnh dáng béo tròn, phốp pháp, vận khố, mặc áo phong phanh, cổ đeo khánh bạc, tóc để trái đào, nụ cười luôn nở trên môi duyên dáng, lạc quan có lúc giống như châm chọc, có lúc như thông cảm …
Với hướng dẫn tạo hình, trang trí như vậy chú Tễu là nhân vật gần như nhân vật hề chèo ở sân khấu rối, chú Tễu cũng sử dụng tiếng cười để nhận thức cuộc sống, đả kích và trào lộng những điều chướng tai gai mắt …. Đây là sáng tạo háo hức của các nghệ nhân dân gian trong các phường rối, nó là sự gia công k chỉ của các ông thợ, mà tập thể các nghệ nhân điêu khắc, sơn màu đến những người điều khiển … Nhờ vậy mà loại nhân vật này xuất hiện vừa mới khắc hoạ được nét điển ảnh nhất của các vai “Hề” trong đời sống, để lại ấn tượng sâu sắc cho người ta.
Do đặc điểm của mỗi dân tộc , múa rối là sân khấu của những con rối không biết cử động, chỉ là công cụ nghệ thuật của nghệ sĩ múa rối, thành ra trong việc tạo nên nhân vật, sân khấu múa rối thiên về khắc hoạ ngoại hình, thể hiện các cử chỉ, mình động mà ít dừng lại ở diễn biến tâm lý, mổ xẻ nội tâm. Và các nhân vật thường k thiết lập một phương pháp hoàn cảnh, đa dạng về lai lịch, quá trình tăng trưởng cũng như chấm dứt cuộc sống. Trong một vở diễn, nhân vật xuất hiện k nhiều . Câu chuyện thường tăng trưởng quanh các nhân vật chính. vì vậy, những nhân vật chính này có vai trò cần thiết trong việc truyền đạt content tác phẩm …
* công cuộc tạo dựng và phát triển:
Thủy đình tại chùa Thầy
thực tiễn cho thấy trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thắng lợi đời Trần, các “quân rối khổng lồ” của Hà Đặc, Phụ Đạo Tử huyện Phù Ninh đã góp phần vào việc đánh tan bọn giặc đóng chiếm động Cự Đà. Năm 1428, sau hơn hai mươi năm chiến đấu, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi chiến thắng, dựng nên triều đại nhà Lê (1428 – 1788). Nhà Lê chuộng văn học nên sân khấu kịch hát dân tộc Chèo, Tuồng tăng trưởng, còn nghệ thuật rối vốn xuất thân không phải từ nghệ thuật ngôn từ, nên lui về bám sát hội hè đình đám ngành dân dã. Nhưng văn học thời Lê vẫn còn bóng dáng quân rối. Tập Lời giáo trò của phường rối cạn Thấm Rộc (Thái Nguyên) là một kéo chứng. Nhà hát rối nước ngoài trời quy mô nhất hiện còn lại ở chùa Thầy (Hà Tây) đã được xây dựng trong hồ Long Trì trước sân chùa khoảng thời Hậu Lê. ảnh hưởng của nghệ thuật rối trong thơ văn đó cũng sâu đậm. Lê Thánh Tông (1441 – 1497) sử dụng thơ vịnh Con bù Quan sát. Bài văn các quan trong triều tiễn biệt Quận công Ngô Đình Chất về hưu năm 1750 có câu: …”Khi nghe sáo diều ở sông Nhuệ, khi xem múa rối ở chợ Tó, đều là cảnh sắc ưa người, chơi bời quá đủ hứng….”. ảnh hưởng này còn gặp trong bài phú Chiếu tụng Tây Hồ của Phạm Thái viết trong thời Tây Sơn (1788-1802). Tiếp đó, tuy nhà Nguyễn (1802-1945) chỉ quan tâm phát triển sân khấu Tuồng, nhưng nghệ thuật rối dân gian luôn luôn giữ vững truyền thống ăn sâu bám chắc địa bàn thôn Lịch sử hình thành và tăng trưởng của nghệ thuật rối ViệtNam từ trước kỷ nguyên Đại Việt còn nằm trong suy đoán của các nhà tìm hiểu. Hai nguồn tư liệu bi ký và sử sách hiện có chứng minh khá rõ tình ảnh hoạt động rối ở VN từ thế kỷ thứ X trở lại đây. Định đô ở Thăng Long, Nhà nước phong kiến Viet Nam vừa mới thật sự vững mạnh, ý chí tự cường, tự chủ dân tộc được xác lập. Trên cơ sở việc xây dựng cung điện chùa tháp … thợ thủ công giỏi được hội tụ, tay ngành được nâng cao, tài năng nảy nở, thúc đẩy các nghệ thuật điêu khắc, kiến trúc tăng trưởng. Để biểu dương công đức và quyền uy, nhiều hội hè đình đám giống như hội mừng khánh thành đạt trình, hội chùa, hội đền, hội kén hoàng hậu, hội mừng sinh nhật vua … được tổ chức với nhiều trò hay, trò lạ. Nghệ thuật rối có từ trước đó cần có nhiều thuận lợi để tăng trưởng. Đại Việt sử ký toàn thư còn ghi :”Tân Dậu năm thứ 12 (1021) mùa xuân tháng Hai, get ngày sinh nhật làm tiết Thiên Thành, lấy tre kết làm ngọn núi Vạn Thọ Nam Sơn ở ngoài cửa Quảng Phúc, trên núi sử dụng hình chim bay muông chạy muan vẻ kỳ lạ, lại sai người bắt chước tiếng cầm thú làm vui, để ban yến cho bầy tôi …”. Những “quân rối chim muông” ở đây vừa mới bay, đang chạy và đang có người bắt chước tiếng cầm thú làm vui. Trò rối đang diễn có động tác và lời. Ta chưa biết trò diễn ở đây bài bản ra sao, nhưng cũng k xa lạ với trò rối cạn mà Nguyễn Công Bật tả trong bia Sùng Thiên Diên Linh dựng năm Thiên phù Duệ Vũ thứ hai 91121) tại chùa Long Đội Sơn (Đội Sơn, Duy Tiên, Hà Nam) :”Lại có hai toà lầu hoa, trong treo chuông vàng, khắc chú tiểu mình mặc áo nâu sồng, vặn máy ngầm giờ vồ lên đánh, nghe vỗ bao gươm mà đứng nghiêm quay mặt, nhìn thấy Thánh minh mà khom cật cúi đầu, …”.
Loại quân rối kiểu chú tiểu đánh chuông này ra, ta cũng gặp trong “cô vũ nữ bằng sắt múa may” và “thằng người gỗ đánh trống” trong thơ của nhà sư Phan Trường Nguyên. Vậy là ngay từ đầu thời Lý (1010 – 1225) vừa mới có quân rối nam, quân rối nữ bằng gỗ, bằng sắt múa may, đánh trống, đánh chuông. Nhưng thú vị hơn là lúc nào quân rối nước cũng có mặt và hoạt động sôi nổi. Quân rối nước rùa vàng phun nước (kim ngao) khá lớn vừa mới xuất hiện trong sóng nước sông Lô (sông Hồng), được mô tả giống như sau : …”Thả rùa vàng đội ba ngọn núi, trên mặt sóng dập dờn, phơi mai vàng để lộ bốn chân, dưới định dạng sông lờ lững. Liếc mắt Quan sát bờ, hé môi phun bến. Ngửa trông mũ miện nhà vua, cúi xét bầu trời lồng lộng, trông vách dựng cheo leo, dạo nhà Thiều réo rắt …” Rồi trên lưng rùa vàng từ cửa động xây dựng ra, các quân rối cạn sắm vai nàng tiên xuất hiện múa khúc “gió về”, hát bài “ca vận tốt”, chim quý từng đàn ca múa, hươu lành từng bầy nhảy nhót, …
Nghệ thuật:
Rối là một loại ảnh văn hoá truyền thống gắn bó chặt chẽ với cuộc đời tinh thần từ lâu đời của nhân dân Viet Nam. Tuy có nhiều dạng hoạt động của loại ảnh này ở khắp mọi liền đất nước, nhưng hội tụ, hoàn thiện, phổ cập hơn cả ở vùng trung du và đồng bằng phía Bắc. Ở đây nghệ thuật rối đang phát triển phổ biến, phong phú. Từ ngữ rốí trong ngôn ngữ giao tiếp và thơ văn, thành tên gọi riêng của làng (làng rối ở ý Yên, Nam Định), của chùa (chùa rối ở Phú Xuyên, Hà Tây), của ao (ao rối ở nhiều nơi)… Từ bao đời nay trò “leo dây, múa rối” là gốc vui chơi tiêu khiển rất cuốn hút bà con xa gần trẩy hội đình chùa làng xã. Lòng mến yêu nghệ thuật này được thể hiện bằng thành ngữ, ca dao, dân ca, bằng văn thơ, … Trò rối xưa gắn bó sâu xa với lễ nghi phong tục. Ngày hội làng Đông An (Hưng Yên) diễn lại sự tích ông Đùng, bà Đà bằng hai quân rối to (thân đan bằng nan tre hoặc nứa, mặt phết giấy, quần áo giấy mầu), rước quanh làng và làm động tác tỏ sự vui mừng. Loại quân rối này ở hội đền Bà Chúa Muối (Thái Bình) lại sử dụng nong đan sử dụng mặt, sào tre làm thân và buồm thuyền sử dụng quần áo diễu hành như một lễ tiết. Tượng Lý Thần Tông thờ ở chùa Thầy (Hà Tây) và tượng tháng Linh Lang thờ ở đền làng Hà Cầu (Hải Phòng), đều được tạc các bộ phận cơ thể bằng gỗ rời nhau, rồi chắp lại có khớp lỏng để làm cử động được, như kiểu con rối dây.
Ngoài đồng ruộng, nương rẫy, nhiều bù Quan sát đứng ngày đêm xua chim, đuổi chuột đến phá hoại hoa màu. Rằm tháng Bảy, Tết xá tội vong nhân hàng năm, nhân dân thường đốt nhiều quân rối vàng mã cho người chết. Tết Trung Thu, Rằm tháng Tám, dành cho trẻ em nhiều quân rối đồ chơi + con thú . Trò múa Rồng, múa Lân, múa Tứ Linh, múa ông Địa … là những trò cuốn hút của hội hè đình đám. Ở đồng bào dân tộc ít người, còn tồn tại nhiều điệu múa đột lốt, múa hoá trang ảnh chim gắn với tín ngưỡng vật tổ như múa chim công (dân tộc Thái Đen), múa hạc ( DT Tày), múa chim phượng hoàng ( DT Dao), múa chim câu ( DT Cao Lan), múa chim Grư (DT Êđê ), Kiểu “tượng quân rối” cũng thấy dùng trong lễ nghi thờ cúng của đồng bào La Chí, Lô Lô, … Đồng bào Bana đã có nhiều trò rối trong lễ bỏ mả k những để sử dụng thoả lòng người chết mà còn làm vui bà con buôn làng.Trong gia đình nhà rối còn gặp trò múa sọ người ở Đông Anh (Hà Nội), múa đầu rối ở Vĩnh Phúc, múa mặt nạ ở Xuân Phả (Thanh Hoá), …
Đồng bào Khơme (Nam Bộ) có hẳn một loại hình sân khấu ” mặt nạ ” Tuồng rôbăm. bây giờ ở chùa Bi (Nam Định), chùa Keo (Thái Bình) luôn luôn lưu giữ các bộ quân rối chuyên diễn thờ ngày hội hàng năm. Chùa Thầy (Hà Tây), đền Gióng (Hà Nội) còn có nhà hát rối nước thiết lập giữ ao hồ trước sân đình, cách cho đến nay hàng thế kỷ…
Âm nhạc:
Trong nghệ thuật biểu diễn rối nước, âm nhạc là một phần k thể thiếu được. Nó không chỉ làm vai trò liên kết giữa tiết mục này với tiết mục không giống, mà âm nhạc còn ảnh hưởng đến k khí của cả chương trình diễn.Tiết tấu của nhạc ảnh hưởng trực tiếp đến việc điều khiển con rối của diễn viên. Âm nhạc đóng vai trò cần thiết trong việc thể hiện rõ tính cách, hành động …của nhân vật rối, ảnh hưởng gây sự hứng khởi, cuốn hút người xem.
Dàn nhạc trong biểu diễn rối nước là dàn nhạc của Chèo, môn nghệ thuật truyền thống đặc thù ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Ngoài các nhạc công còn có các ca sĩ hát chèo. Các bài ca, lời thoại phối hợp với động tác của các con rối đang đưa người xem đến với những tích trò , những truyền thuyết giàu tính nhân văn, những tập tục, lễ hội mang đậm bản sắc dân tộc ở vùng châu thổ sông Hồng.
. Các nhạc cụ chủ yếu trong biểu diễn rối nước là: Trống, nhị, sáo, bộ gõ, đàn tranh hoặc tam thập lục, đàn bầu.
. Trong biểu diễn rối nước người xem còn sử dụng nhiều loại pháo giống như pháo nổ, pháo bông, pháo dây, pháo vịt nhằm xây dựng k khí sôi động và sự lung linh huyền không có thực cho buổi diễn thêm hấp dẫn.
Nguồn: http://thanglongwaterpuppet.org/
Bình luận về chủ đề post